Lược sử Maschinengewehr 42

Lược sử phát triển

Trong thập niên 30 của thế kỷ 20, quân đội Đức đã trang bị súng máy MG 34. Súng được coi là súng máy đa năng hiện đại đầu tiên trên thế giới. việc dễ thay nòng, nạp đạn bằng băng dài hoặc hộp tiếp đạn lớn làm MG 34 có thể bắn lâu hơn rất nhiều so với các súng máy hạng nhẹ khác như Browning M1918 của Mỹ, Type 11 của Nhật Bản, Bren của Anh hay FM 24/26 của Pháp, trong khi nhẹ hơn nhiều so với các súng máy cộng đồng như Vickers và súng máy Browning M1917. Súng khá đa năng. Có thể nạp đạn từ băng dài hoặc hộp tiếp đạn hình trống đường đẩy xoắn (thay đổi nắp buồng đạn cho phù hợp với kiểu nạp đạn bằng hộp tiếp đạn), và bắn trên giá súng hạng nặng hoặc bệ súng máy trên xe thiết giáp. Súng thậm chí đã trở thành hỏa khí phòng thủ chủ yếu cho máy bay chiến đấu của Không quân Đức trong phiên bản MG 81, và trang bị trên xe tăng làm hỏa khí thứ cấp trong phiên bản MG 34 Panzerlauf. Tuy nhiên, súng cũng có mặt hạn chế của nó, như nhạy cảm với bụi bẩn và giá thành sản xuất tương đối cao. Một trong những nỗ lực cải tiến súng là MG 34S dựa trên thiết kế cơ bản năm 1934.

Để giải quyết vấn đề, một cuộc thi đã được tổ chức để tìm ra loại súng máy thực sự thay thế được MG 34. Ba tập đoàn được yêu cầu gửi mẫu thiết kế: Metall und Lackierwarenfabrik Johannes Großfuß AGDöbeln, Rheinmetall-BorsigSömmerda, và StübgenErfurt.[2] Mẫu thiết kế của Großfuß AG đã chứng minh ưu thế so với các đối thủ, bởi cho đến lúc đó, súng áp dụng cơ cấu lùi ngắn có hãm con lăn độc đáo trong khi hai thiết kế cạnh tranh áp dụng kiểu trích khí. Điều thú vị ở đây là tập đoàn này không có kinh nghiệm về thiết kế chế tạo vũ khí, chỉ chuyên về dập cán các chi tiết thép.[2] Ernst Grunow, một trong những kỹ sư thiết kế hàng đầu của Großfuß AG không hề biết gì về súng máy khi ông được giao nhiệm vụ tham gia dự án, nhưng ông chuyên về công nghệ sản xuất hàng loạt. Grunow tham dự một khóa đào tạo xạ thủ súng máy của quân đội để tự làm quen với các tính chất và đặc điểm của loại vũ khí này, cũng như tìm hiểu chúng từ góc độ binh lính. Ông này sau đó tái thiết kế một hệ thống máy súng do Mauser phát triển lúc đó, kết hợp các tính năng từ những kinh nghiệm khi ông theo học về khóa học xạ thủ súng máy và kinh nghiệm thực chiến của binh sĩ Đức trong giai đoạn đầu Thế chiến II.[2] Khẩu súng mới yêu cầu ít máy móc hơn nhiều và chế tạo đơn giản hơn - cần 75 giờ làm việc để hoàn thành trong khi MG 34 cần 150 giờ làm việc (giảm 50%), và chi phí 250 RM so với 327 RM của MG 34 (giảm 24%). Các chi tiết của MG 42 được chế tạo từ thép dập, làm cho súng dễ dàng sản xuất hơn nhiều so với các súng máy khác.

Kết quả là mẫu thử nghiệm MG 39 vẫn tương tự như MG 34 trước đó về tổng thể, một quyết định cố ý để duy trì sự quen thuộc cho người sử dụng. Chỉ có thay đổi lớn từ quan điểm của xạ thủ là hoàn toàn loại bỏ hộp tiếp đạn, sử dụng băng đạn dài hoặc băng đạn ngắn 50 viên đựng trong hộp đạn hình trống (gắn trên thành hộp khóa nòng), và đơn giản hóa cụm bộ phận ngắm. tất cả những thay đổi này nhằm gia tăng, duy trì, hoặc kết hợp với tốc độ bắn thực rất cao của súng. Mặc dù được làm bằng các bộ phận tương đối rẻ, nguyên mẫu MG 39 đã được chứng minh là có khả năng chống kẹt máy súng tốt hơn MG 34. Sau khi khoảng 1,500 khẩu MG 39 được sản xuất, MG 39/41 được hoàn thiện vào năm 1941 và được mang ra thử nghiệm trong thực chiến.

Súng được chính thức chấp nhận trang bị và được tiến hành sản xuất hàng loạt năm 1942,được đặt tên mới là MG 42. Hợp đồng sản xuất do các hãng Großfuß AG, Mauser-Werke, Gustloff-Werke, và những đối tác khác thực hiện. Số lượng sản xuất trong chiến tranh vào khoảng hơn 400,000 khẩu (17,915 khẩu năm 1942, 116,725 năm 1943, 211,806 năm 1944, và 61,877 năm 1945).

Liên quan